hắn vừa đi vừa chửi
1. Khuyên bảo phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo1.1. So với đề1.2. Khối hệ thống luận điểm1.3. Lập dàn ý đưa ra tiết1.4.
Hướng dẫn. "Hắn vừa đi vừa chửi", đây là câu văn mở đầu kiệt tác Chí Phèo chỉ có năm chữ nhưng chúa đủ các thông tin về nhân vật chính và sức nổ của tư tưởng-chủ đề tác phẩm: "hắn" là đại từ chỉ nhân vật, khi gọi ai đó là hắn cũng đủ biết thái
"Hắn vừa đi vừa chửi", đây là câu văn mở đầu kiệt tác Chí Phèo chỉ có năm chữ nhưng chúa đủ các thông tin về nhân vật chính và sức nổ của tư tưởng-chủ đề tác phẩm: "hắn" là đại từ chỉ nhân vật, khi gọi ai đó là hắn cũng đủ biết thái độ của nhà văn đối với đối tượng được miêu tả; hơn thế cũng có thể thấy đuọc địa vị xã hội, tình cảnh sống của họ.
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại
Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết'' Xét trong kết cấu của một truyện ngắn, đoạn văn mở đầu của truyện phải
Site De Rencontre Gratuit Sans Carte Bancaire. Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ bảy, 10/4/2021, 1857 GMT+7 Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao 1917-1951, viết hồi tháng 2/1941. Đây là tác phẩm xuất sắc về đề tài nông thôn, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Phèo là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, được cưu mang, rồi lớn lên trở thành thanh niên đi làm thuê hiền lành, chất phát. Sau đó, Chí bị giam giữ do Bá Kiến ghen tuông, đẩy vào tù. Ra tù, Chí trở thành tay sai cho Bá Kiến, ngang ngược, hung ác. Chí Phèo bị loại ra khỏi đời sống của dân làng Vũ đầu tác phẩm, Chí Phèo được nhà văn miêu tảHắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ "Chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra trên bề rộng không gian và thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương 1983, bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy được sản xuất, kịch bản chuyển thể từ ba truyện ngắn của nhà văn Nam Cao gồm Sống mòn, Chí Phèo và Lão Hạc. Bộ phim được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam thế kỷ 2 Chí Phèo cảm thấy được yêu thương, lần đầu "thèm sống lương thiện" sau việc gì?a. Chí xô xát với Lý Cường, rạch mặt ăn vạb. Chí cược Bá Kiến cho tiền đi mua rượub. Chí được ăn cháo hành do Thị Nở nấu
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng nhủ “ Chắc nó trừ mình ra! ” Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ thân hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha ! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết, hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết …” Trích “Chí Phèo” – Nam Cao Anh chị hãy cảm nhận ý nghĩa đoạn văn trên. Hướng dẫn làm bài – Tiếng chửi của Chí Phèo được đưa ngay lên đầu tác phẩm, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả về nhân vật Chí Phèo với tiếng chửi đầy bất mãn và đau đớn. – Những hình thái diễn đạt khác nhau của tiếng chửi + Thông qua lời dẫn truyện lạnh lùng, xót xa của tác giả. + Thông qua lời thuật lại đầy ngán ngẩm, thờ ơ, hờ hững của dân làng Vũ Đại + Thông qua cái giọng bực tức, chất vấn, đớn đau, quằn quại khi vật lộn với bi kịch của chính bản thân Chí Phèo. – Cách sắp xếp tiếng chửi của Chí Phèo “Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời… chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo…“ → Tiếng chửi có sự tăng tiến về mặt cấp độ càng về sau tiếng chửi của hắn càng trở nên gay gắt, cay cú và phẫn nộ, đau đớn đến cực điểm. – Nguồn gốc tiếng chửi của Chí + Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch số phận Mồ côi từ thuở lọt lòng, không cha không mẹ. + Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch tha hóa Sự lương thiện tốt đẹp ấy của Chí đã bị chà đạp, tàn phá bởi sự lẳng lơ đĩ thõa của một người đàn bà, và lòng ghen tuông mù quáng của tên chồng bất lực, sợ vợ là Bá Kiến. Chí Phèo bị đổ oan, vào tù độ 7, 8 năm. Từ đó Chí Phèo bị trượt dài trên con đường tội lỗi, tha hóa nhân hình, nhân phẩm, trở thành quỷ dữ của Chí Phèo. + Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch bị từ chối quyền làm người Gặp Thị Nở, khao khát một mái ấm, và trở lại làm người lương thiện nhưng bị những lời lẽ đay nghiến của bà cô làm tỉnh ngộ, lựa chọn tử tử kết thúc cuộc đời. + Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình. – Sử dụng biện pháp tu từ cú pháp + Điệp cú pháp, liệt kê hắn chửi trời… hắn chửi đời… chửi ngay… chửi đứa… nhấn mạnh đối tượng của tiếng chửi được sắp xếp từ xa đến gần, từ cao đến thấp, có thứ tự, có lớp lang. + Cuối câu chửi sử dụng nghệ thuật chêm xen “đẻ ra cái thằng Chí Phèo“ nhấn mạnh bi kịch bị từ chối của Chí Phèo đồng thời gián tiếp tố cáo chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra Chí Phèo. → Tiếng chửi của Chí Phèo diễn ra theo trật tự từ cái vĩ mô đến cái cụ thể, từ lớn đến nhỏ. – Đối tượng hướng đến của tiếng chửi + Những tiếng chửi của Chí Phèo vu vơ, uất ức, hắn chửi từ trời đến đời, từ làng Vũ Đại đến những người không chửi nhau với hắn… Hắn chửi tất cả mà chẳng trúng vào ai. Bởi Chí Phèo không biết ai làm hắn khổ, còn cả thế gian ai cũng nghĩ mình vô can trong bi kịch của Chí. + Điều độc đáo trong tiếng chửi của Chí Phèo là ở việc Nam Cao đã lồng tiếng chửi vào một nhân vật đã bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn chính là sản phẩm của sự tàn bạo. Thế nên, tiếng chửi ấy rất xứng đáng, rất hợp lý. – Đặc sắc nghệ thuật trần thuật qua tiếng chửi + Kết cấu đi thẳng vào vấn đề chính trong tiếng chửi hội tụ các vấn đề quan trọng mà tác giả muốn triển khai. + Cách dẫn dắt cuốn hút, hấp dẫn người đọc. + Cách kể chuyện đa chủ thể bằng lời nửa trực tiếp, tiếng chửi vừa có điểm nhìn của Nam Cao, vừa có điểm nhìn của Chí Phèo, vừa có điểm nhìn của làng Vũ Đại. + Ngôn ngữ sống động, đa giọng điệu. → Nghệ thuật trần thuật đạt đến trình độ bậc thầy, làm nên sức sống cho tác phẩm. Tham khảo TIẾNG CHỬI CỦA CHÍ PHÈO. Nam Cao đã mở đầu thiên truyện một cách độc đáo, ấn tượng đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo. Hắn vừa đi vừa chửi “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.” Đoạn văn ngay từ đầu tác phẩm đã lột tả một cách sâu sắc số phận bất hạnh của Chí Phèo bi kịch một con người sinh ra làm người nhưng bị tước mất quyền làm người. Đằng sau bi kịch ấy là một tâm trạng đau đớn quần quại, uất ức và bế tắc của nhân vật. Hắn chửi vậy, nhưng không có ai chửi nhau lạị với hắn bởi ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra!”. Chí Phèo chửi phải chăng là hắn say rượu? Nhưng không! hắn càng uống càng tỉnh. Bởi thế tiếng chửi của Chí Phèo chính là sự giao tiếp của hắn với đời, hắn muốn được nói chuyện, muốn nói chuyện giao tiếp với mọi người. Bình thường, người ta chỉ “chửi” khi đang tức giận một điều gì hay một người nào đó. Tiếng chửi gây mất hoà khí với mọi người xung quanh, nhưng đôi khi nó giúp chúng ta bớt căng thẳng vì “bõ tức”. Nhưng, Chí có xích mích điều gì hay với ai mà lại phải chửi? Lia cận cảnh vào những đối tượng mà Chí đang xích mích, đó là “trời”, “đời”, “làng Vũ Đại’, “ai không chửi nhau với hắn”, “người đẻ ra hắn”. Tiếng chửi của một kẻ tưởng chừng như say rượu ấy lại có lớp , bài bản, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ không xác định đến xác định. Tuy nhiên, cái đối tượng tưởng chừng như xác định “người đẻ ra hắn” thì “hắn không biết”, “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”. Thành ra, tiếng chửi ấy vu vơ, cất lên cao rồi lại lọt thỏm giữa không trung. Thật vậy, hắn chửi “trời” nhưng “trời có của riêng nhà nào”. Đối tượng mở đầu của tiếng chửi là “trời”. Bầu trời trong xanh, cao vời vợi yên bình, nhưng trong mắt hắn cũng thật đáng chửi. Vì bầu trời ôm trọn tất cả loài người vào lòng, không chừa một ai cả. Bầu trời ấy đã đón nhận hắn – một người nông dân lương thiện lại còn đón nhận thêm bá Kiến – người huỷ hoại cả cuộc đời hắn. Và phải chăng, bi kịch bị bà Ba gọi vào bóp chân khiến bá Kiến ghen tuông cũng là câu chuyện do “trời” sinh ra. Yếu tố tưởng chừng như duy tâm ấy lại phản ánh cả xã hội đương thời thối nát, không có chỗ cho người lương thiện dung thân. “Trời” như một câu cửa miệng, một thông lệ để kêu ca cho tất cả những số phận bi kịch. Và rồi hắn chửi “đời” “đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai”. Đời là cuộc sống, số phận của một con người từ lúc mới sinh đến khi ra đi. Chửi đời tức là chửi “tất cả”, chửi không sót một thứ gì. Cứ ngỡ tưởng, hắn chửi đời người khác nhưng thực ra, hắn cũng đang chửi đời hắn. Hắn chửi từng câu chuyện, từng bước đi trong cuộc đời mình. Dường như, mọi thứ đổ ập trước mắt hắn đều đáng để cay cú, nhạo báng, chế giễu. Cũng phải thôi khi người ta sinh ra trong “chăn ấm nệm êm” thì hắn lại sinh ra bên “cái lò gạch bỏ không”. Phải chăng, đó cũng là một dấu hiệu báo trước cho cuộc sống với hàng tấn bi kịch về sau. Đời đã bất công với hắn, đã đối xử tệ với hắn, nên hắn phải “chửi”. Giá mà cuộc đời hắn được suôn sẻ, giá mà đời ưu ái hắn hơn thì biết đâu, tiếng chửi ấy đã thay bằng tiếng “cảm ơn”. Cha mẹ cho hắn hình hài của người nhưng cả làng Vũ Đại đã tước đi quyền làm người, biến hắn trở thành con quỷ dữ khiến người ta trở nên ghê sợ. Còn nhớ, từ lúc hắn sinh ra đến năm 20 tuổi, hắn lớn lên trong vòng tay bao bọc của người làng. Tuy nhiên, họ lại “chuyền tay” nhau – một người chỉ nuôi hắn trong một thời gian nhất định. Làng Vũ Đại chỉ nuôi cho “sống”, chứ không ai dạy Chí cách “sống”. Chí hoàn toàn không được hưởng tình yêu thương hay sự chỉ bảo của bất kỳ một ai cả. Cuộc đời hắn là bức tranh với những mảnh ghép không hoàn hảo. Sự nuôi dưỡng mà làng Vũ Đại cho hắn là quá ít để hắn phải nhớ ơn suốt đời. Trái lại, cả làng ai cũng coi hắn là một sinh vật cần phải tránh xa, cần phải cự tuyệt. Ơn một, oán đến mười, đó là lý do vì sao hắn phải chửi. Chửi cả làng, tức là không chừa một người nào. Vậy mà ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Cả làng Vũ Đại đều đáng chửi vì không cho hắn được sống như một con người. Hắn đã chai sạn cảm xúc đến độ thứ bật ra không phải là tiếng khóc mà lại là tiếng chửi. Ta thấy, chỉ cần một bát cháo hành, một người con gái xấu đến “ma chê quỷ hờn” mà hắn đã “thèm làm hoà với mọi người biết bao”. Có lẽ, con nhím ấy sẽ không còn xù lông nếu mọi người biết vuốt ve, xoa dịu những tổn thương trong trái tim nó. Và rồi, hắn “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Cả làng Vũ Đại có ai dại gì mà động vào hắn? Bởi vậy, ai cũng đều đang không “chửi nhau với hắn”. Nực cười, lại có người chửi người không chửi nhau với mình sao? Như một đứa trẻ con làm nũng mẹ, chửi là một cách để Chí thu hút sự chú ý, sự quan tâm của người khác. Trong thâm tâm, Chí chỉ mong muốn có người đáp lại lời hắn dù bằng hình thức giao tiếp thấp nhất là tiếng chửi. Chí không những không “thờ mẹ kính cha” mà lại “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn”. Ở một khía cạnh nào đó, người ta nhìn vào hắn như một đứa con bất hiếu. Xong, trở lại với bậc cha mẹ, họ chỉ biết đẻ hắn ra rồi để hắn tự sinh tự diệt. Vậy, công cha có còn như “núi Thái Sơn”, nghĩa mẹ có còn như “nước trong nguồn chảy ra”? Hắn không được hưởng chút nào từ tình yêu thương cha mẹ ngoài việc “đẻ hắn ra”. Mà đẻ hắn ra rồi, hắn nào có sung sướng, hạnh phúc gì? Thà từ đầu đừng có hắn còn hơn. Hắn không hề biết ơn việc mình có mặt trên đời này khiến cho hắn cũng chẳng thiết tha gì việc trả nghĩa cha mẹ. Tiếng chửi đó không phải của một người con bất hiếu mà là của một người con bất hạnh. Thành ra, tiếng chửi đó có phần đáng thương hơn là đáng trách. Chí chửi nhiều như vậy mà “không ai lên tiếng, không ai ra điều”. Tiếng chửi của Chí không đơn thuần là muốn nhiếc móc hay hờn trách ai mà chỉ muốn được giao tiếp với loài người. Người ta thường nói “yêu nhau lắm cắn nhau đau” hay “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Chửi những cái “đau”, những cái “roi vọt” không đơn thuần là ghét mà nó là một cách để tìm kiếm tình thương. Vậy mà không có một ai cho hắn cơ hội cả. Chỉ có một mình hắn cô độc đến đáng thương, tự chửi rồi tự mình nghe. Và đó là vì sao hắn cảm thấy “tức”, “tức chết đi được mất”, “có khổ hắn không”, “có phí rượu không”. Nếu không uống rượu, chắc hắn cũng không can đảm để làm như vậy. Thế mà uống rượu rồi, can đảm rồi, nhưng kết quả thu về lại hoàn toàn chẳng có gì. Chỉ có mình hắn với “ba con chó giữ”. Đẳng cấp của một con người đã bị hạ xuống tận hàng con vật. Đây chính là sự coi thường, sự nhục nhã lớn nhất mà mọi người dành cho Chí. Dù trong cơn say, hắn vẫn nhận ra điều này và nó làm cho hắn “tức chết đi được”. Bao nhiêu công sức mà hắn “tìm kiếm sự chú ý” đều đổ xuống sông xuống bể khiến hắn khổ tâm, đau đớn lắm. Những cụm từ cảm thán như “tức thật”, “tức chết đi được mất”, “mẹ kiếp”,… cũng những cụm từ mang ý nghĩa phủ định như “chắc nó trừ mình ra”, “không ai ra điều”, “không biết” đã diễn tả thành công giọng điệu phẫn uất, căm hờn của một cái tôi cô đơn, bị ruồng bỏ. Những cụm từ cảm thán ấy đã bộc lộ được cảm xúc của Chí một cách chân thực và rõ nét. Và khác với lối văn phong hoa mỹ, chau chuốt, Nam Cao sử dụng lối nói gần gũi, thân thiết với người đọc. Cũng phải thôi vì đối với một người như Chí, phải sử dụng cái tiếng chửi thô, sơ, nguyên bản mới thể hiện được hết con người. Cũng như ông Hai trong Làng của Kim Lân, Chí là một người nông dân với lối ngôn ngữ thuần Việt. Nhưng qua lối chửi của Chí, mùi lưu manh như hiện rõ trong từng câu từng chữ. Nước mắt dường như đã gắn liền với truyện ngắn của Nam Cao. Ông tỏ ra sùng bái, tin tưởng vào giọt nước mắt – sự thiện lương của con người đến độ gần như không có một câu chuyện nào không có chi tiết giọt nước mắt. Giọt nước mắt chính là bi kịch cuộc đời của một nhân vật. Và phải chăng, tiếng chửi của Chí cũng là một hình thức khác của tiếng khóc. Hình thức này độc đáo hơn, tiêu cực hơn nhưng lại đậm phần chân thực, đau đớn hơn. Tiếng chửi của Chí Phèo chính là phản ứng của hắn trước toàn bộ cuộc đời bất hạnh. Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn tột độ của một con người ý thức được rằng mình đã bị xã hội ruồng bỏ. Những tiếng chửi vô nghĩa, không được xã hội đón nhận, lắng nghe. Một khi đã bị tước mất quyền làm người thì mọi tiếng chửi rủa, than khóc, tỉnh táo hay say xỉn đều vô tác dụng. Chí Phèo thích kêu làng kêu xóm, đối với một người bình thường thì những tiếng kêu ấy ngay tập tức gây được sự chú ý của mọi người; nhưng đối với Chí lại khác, dù hắn kêu làng như một người bị đâm thì giỏi lắm chỉ làm cho Thị Nở kinh ngạc còn cả làng vẫn không ai động dạng… mà đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó xắn xôn xao trong xóm. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với con người của hắn dù là hình thức hạ đẳng nhất. Nhưng cũng không ai đáp lại nên Chí phẫn uất. Tiếng chửi vừa thể hiện đỉnh cao tấn bi kịch cô đơn, bị từ chối quyền làm người của Chí vừa dẫn dắt câu chuyện đến hoàn cảnh xuất thân và số phận bất hạnh của Chí Phèo. Những chi tiết này cho thấy một kiếp sống cô độc của người nông dân bị tha hóa, bị xã hội ruồng bỏ, không còn tư cách làm người. Chí Phèo tồn tại như một “bóng ma” nhưng là một “bóng ma” lạc lõng và không gây kinh sợ cho ai cả. Đoạn văn thể hiện ngòi bút văn xuôi bậc thầy của Nam Cao ở tài năng dẫn chuyện, kể chuyện, sử dụng ngôn từ nghệ thuật điêu luyện, xuất sắc điểm nhìn trần thuật linh hoạt, làm nổi bật hoàn cảnh và số phận của nhân vật; ngôn ngữ sinh động, đa thanh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ trần thuật ngôi thứ ba với ngôn ngữ lời nửa trực tiếp, … Chú ý tiếng chửi và cách trần thuật nương theo tâm trạng của một người say rượu và nỗi đau khổ, tuyệt vọng của một con người sinh ra làm người nhưng không được thừa nhận là con người. Bên cạnh đó, đoạn văn mở đầu tác phẩm còn đặc biệt ở chỗ nó tạo ra một kết cấu truyện sáng tạo, làm nổi bật số phận nhân vật và giá trị của thiên truyện. Đầu những thế kỷ XX, người ta đã coi chị Dậu là hình mẫu tiêu biểu cho những số phận khổ cực của người nông dân bị ép buộc, phải bán con, bán chó,… Xong, Chí Phèo xuất hiện như một cơn sóng mới xô đi hình ảnh đó, chiếm lấy ngôi vị “người nông dân với số phận bi thảm nhất” bị tha hoá cả về nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Có thể nói, Nam cao đã phản ánh thật xuất sắc xã hội đương thời thối nát, buộc con người muốn sống được thì phải tha hoá. Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
Chí Phèo – “Hắn vừa đi vừa chửi””Hắn vừa đi vừa chửi”, đây là câu văn mở đầu kiệt tác Chí Phèo […]Hướng dẫn“Hắn vừa đi vừa chửi”, đây là câu văn mở đầu kiệt tác Chí Phèo chỉ có năm chữ nhưng chúa đủ các thông tin về nhân vật chính và sức nổ của tư tưởng-chủ đề tác phẩm “hắn” là đại từ chỉ nhân vật, khi gọi ai đó là hắn cũng đủ biết thái độ của nhà văn đối với đối tượng được miêu tả; hơn thế cũng có thể thấy đuọc địa vị xã hội, tình cảnh sống của họ. Một người vừa đi vừa chửi, chắc chắn tâm trạng không bình thường người ấy chắc đang rất buồn, thậm chí đầy giận dữ một cách vô cơ vì một điều vô nghĩa lí nào đó. Thậm chí câu mở đầu truyện ngắn cũng có thể cho ta biết được cái phong vị văn chương, thậm chí cả phong cách của nhà văn. Câu văn mở đầu cho ta biết được lối tư duy nghệ thuật của nhà văn, một lối tư duy khúc chiết, sáng rõ như tư duy của một nhà toán học. Câu văn mở đầu truyện ngắn cũng cho ta biết được phương pháp viết văn của Nam Cao, chúng tôi tạm gọi đó là phương pháp gián cách. Phương pháp gián cách được ứng dụng trong sáng tác và diễn xuất kịch, nó yêu cầu diễn viên phải tạo một khoảng cách giữa mình với vai diễn, không được hoà tan, không được đánh mất sự tỉnh táo để ngộ nhận cái ranh giới giữa nghệ thuật và cuộc đời. Trong trường hợp này, nhà văn Nam Cao đã giữ một khoảng cách cần thiết giữa mình và nhân vật Chí Phèo. Câu văn mở đầu cũng cho ta nhận biết một lối văn có tốc độ của Nam Cao, tốc độ này tạo cho tác phẩm 1 nhịp điệu riêng. Câu văn mở đầu cũng đồng thời có thể giúp người đọc nhận biết được giọng văn của nhà văn trong tác phẩm này. Trong ngôn ngữ giao tiếp, người ta chú ý đến ngữ điệu, còn trong tác phẩm văn chương người ta chú ý đến giọng điệu. Giọng là hạt nhân của phong cách nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác thơ cũng như văn xuôi. Câu văn mở đầu truyện Chí Phèo cho ta nhận biết ngay một giọng đặc trưng, đặc sắc của Nam Cao-giọng bình thản, lạnh lùng, khách quan và đôi khi có vẻ “tàn nhẫn”. Giọng này có đặc tính như nhận xét của nhà văn Pháp về G. Môpatxăng, đại ý, đằng sau sự lạnh lùng tàn nhẫn là giọt nước mắt ấm nóng nhỏ xuống những kiếp người nhỏ bé, đáng thương, những con người bình thường nhưng tâm hồn và nhân cách thánh được câu văn mở đầu hay là nhà văn đã xác định được hướng phát triển của câu chuyên mình muốn kể với bạn đọc, là xác định được giọng điệu kể chuyện mà mình theo đuổi trong suốt chiều dài tác phẩm. Câu văn mở đầu cũng giống như cánh cửa, mở ra, dẫn người đọc vào ngôi nhà vừa xây cất xong. Đứng ở ngưỡng cửa nhìn vào, ta có thể biết chủ nhân của ngôi nhà này là người như thế nào giàu có hay nghèo hèn, có mến khách không, có giàu có về tâm hồn không, có đáng tin như một người bạn chân chính không,…Xem thêm Tả cảnh đường phố nơi em ở khi trời mưaTrong nghệ thuật truyện ngắn, đoạn mà đầu mà quan trọng nhất là câu văn mở đầu và đoạn kết thúc liên hệ khăng khít với nhau, có những mỗi liên hệ “ngầm” mà độc giả tinh ý mới nhận ra được. Một nhà văn tài danh thế giới có viết, đại ý, nếu ở đầu truyện anh tả một khẩu súng treo trên tường, thì ở cuối truyện cần cho nó nhả đạn. Trở lại câu văn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao “Hắn vừa đi vừa chửi” sẽ ngầm báo cho chúng ta biết, cuối truyện khẩu súng sẽ nhả đạn như thế nào Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình, nhưng câu chuyện về nhân vật này chưa thể kết thúc bởi “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua,…. Câu văn mở đầu truyện ngắn Đời thừa 1943 của Nam Cao được nới dài hơn với tám chữ “Từ ngẩng mặt lên nhìn Hộ ba lần”. Câu văn mở đầu truyện ngắn này có sắc thái khác hẳn câu văn mở đầu truyện Chí Phèo. Khác, không phải vì số chữ tăng lên mà vì hành động nhìn của nhân vật Từ được nhấn mạnh ba lần. Vì sao Từ lại nhìn chồng Hộ theo cách ấy? Vì “Từ thấy sợ…”. Vì sao người vợ lại sợ người chồng, mặc dù chính Hộ đã mở rộng vòng tay cứu vớt Từ? Câu văn mở đầu đã khơi gợi ở người đọc trí tò mò để phải đọc cho hết truyện nhằm giải mã câu hỏi này. Nếu đọc lại truyện ngắn của nhà văn Nam Cao trước năm 1945 một cáh kĩ lưỡng, vừa với tư cách người thưởng thức, vừa với tư cách người nghiên cứu, chúng ta sẽ nhận biết nghệ thuật vào truyện, đặc biệt là nghệ thuật viết câu văn mở đầu truyện ngắn của ông là khó có thể bắt chước. Cổ nhân có câu, “vạn sự khởi đầu nan”, hoặc “đầu xuôi đuôi lọt” là hàm chứa nhiều nghĩa lí của nó. Câu văn mở đầu truyện ngắn là rất quan trọng, tại sao không?!Nhan đề bài viết CÂU VĂN MỞ ĐẦU TRUYỆN NGẮN – Nhà văn Bùi Việt ThắngHà Nội, tháng 1 năm 2012VH&TT số 3/2012Xem thêm Soạn bài Đêm nay bác không ngủGiải mã hành vi chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam CaoTheo
Nội dung chính Show Đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao – Đề số 1Đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao – Đề số 2Các dạng đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao1. Dạng đề đọc – hiểu 3-4 điểm2. Dạng đề viết bài văn 4-6 điểmVideo liên quan Đọc văn bản “Chí Phèo” – Nam Cao và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… Trích “Chí Phèo” – Nam Cao văn trên sử dụng phương thức biểu đạt nào là chính? bản trên nói về điều gì? giả đã sử dụng những kiểu câu nào? văn bản trên, Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì? 5. Nêu 2 thành phần nghĩa trong câu sau…hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo 6. Từ văn bản trên, em hãy chứng minh từ tiếng việt không biến đổi hình thái tiêu đề cho văn bản trên. Đề đọc hiểu về Chí Phèo Nam Cao Gợi ý 1. Phương thức tự sự bản trên nói về tiếng chửi của Chí Phèo, một thằng say rượu 3. Tác giả đã sử dụng rất nhiều kiểu câu khác nhau Câu trần thuật câu kể, câu miêu tả, câu hỏi câu nghi vấn, câu cảm thán. Phèo chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo đã tạo ra một màn ra mắt độc đáo cho nhân vật, gợi sự chú ý đặc biệt của người đọc về nhân vật. Tiếng chửi ấy vừa gợi ra một con người tha hóa đến độ lại vừa hé lộ bi kịch lớn nhất trong cuộc đời nhân vật này. Chí dường như đã bị đẩy ra khỏi xã hội loài người. Không ai thèm quan tâm, không ai thèm ra điều. Chí khao khát được giao hòa với đồng loại, dù là bằng cách tồi tệ nhất là mong được ai đó chửi vào mặt mình, nhưng cũng không được. 5. Nghĩa sự việc nói về hành động của Chí hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo Nghĩa tình thái thể hiện thái độ của Nam Cao khi miêu tả nhân vật bề ngoài thì dửng dưng lạnh lùng nhưng trong sâu thẳm là sự cảm thông thương xót 6. Từ hắn được lặp lại nhiều lần, giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng không thay đổi về âm đọc và chữ viết sinh đặt tiêu đề ngắn gọn, khái quát nội dung và chủ đề đoạn trích Tài liệu sưu tầm Xem thêm Tuyển tập bộ đề đọc hiểu ôn thi THPT Quốc gia ngữ văn Chí Phèo, đề đọc hiểu “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. hề gì? có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! có phí rượu không? thì có khổ hắn không? biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… ” Trích Chí Phèo- Nam Cao Các câu1, 2, 3 dùng để bộc lộ cảm xúc, câu 4 dùng để hỏi Dấu hiệu dấu chấm hỏi và 1 số từ ngữ nghi vấn 2,0 điểm Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả . Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… Trích “Chí Phèo” – Nam Cao a. Nêu vị trí và nội dung cơ bản của đoạn trích? b. Những kiểu câu nào được tác giả sử dụng trong đoạn trích trên? c. Đoạn văn bản trên kể theo giọng của ai? d. Tiếng chừi của Chí Phèo hướng đến đối tượng nào? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì? e. Theo em ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại? Cùng THPT Sóc Trăng tìm hiểu một số đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao. Đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao – Đề số 1 Đọc văn bản “Chí Phèo” – Nam Cao và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… Trích “Chí Phèo” – Nam Cao Câu 1. Đoạn văn trên sử dụng phương thức biểu đạt nào là chính? Câu 2. Văn bản trên nói về điều gì? Câu giả đã sử dụng những kiểu câu nào? Câu văn bản trên, Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì? Câu 5. Nêu 2 thành phần nghĩa trong câu sau…hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo Câu 6. Từ văn bản trên, em hãy chứng minh từ tiếng việt không biến đổi hình thái. Câu 7. Đặt tiêu đề cho văn bản trên. Gợi ý trả lời Câu 1. Phương thức tự sự Câu 2. Văn bản trên nói về tiếng chửi của Chí Phèo, một thằng say rượu Câu 3. Tác giả đã sử dụng rất nhiều kiểu câu khác nhau Câu trần thuật câu kể, câu miêu tả, câu hỏi câu nghi vấn, câu cảm thán. Câu 4. Chí Phèo chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo đã tạo ra một màn ra mắt độc đáo cho nhân vật, gợi sự chú ý đặc biệt của người đọc về nhân vật. Tiếng chửi ấy vừa gợi ra một con người tha hóa đến độ lại vừa hé lộ bi kịch lớn nhất trong cuộc đời nhân vật này. Chí Phèo dường như đã bị đẩy ra khỏi xã hội loài người. Không ai thèm quan tâm, không ai thèm ra điều. Chí khao khát được giao hòa với đồng loại, dù là bằng cách tồi tệ nhất là mong được ai đó chửi vào mặt mình, nhưng cũng không được. Câu 5. Nghĩa sự việc nói về hành động của Chí hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo Nghĩa tình thái thể hiện thái độ của Nam Cao khi miêu tả nhân vật bề ngoài thì dửng dưng lạnh lùng nhưng trong sâu thẳm là sự cảm thông thương xót Câu 6. Từ hắn được lặp lại nhiều lần, giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng không thay đổi về âm đọc và chữ viết Câu 7. Học sinh đặt tiêu đề ngắn gọn, khái quát nội dung và chủ đề đoạn trích. ……………………………………………. Đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao – Đề số 2 Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi ở dưới “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… “ Trích Chí Phèo- Nam Cao Câu 1 Phương thức biểu đạt của đoạn trích? Nêu ý chính của đoạn trích? Câu 2 Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời…chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo… được sử dụng biện pháp tu từ cú pháp như thế nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó? Câu 3 Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn. Nêu ý nghĩa nghệ thuật của việc sử dụng nhiều câu ngắn đó Trả lời Câu 1 Tự sự Ý chính của đoạn trích 0,5 điểm – Đoạn trích miêu tả cảnh Chí Phèo uống rượu say và vừa đi vừa chửi giữa sự thờ ơ của tất cả mọi người. Câu 2 Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo Bắt đầu hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo …được sử dụng biện pháp tu từ cú pháp điệp cú pháp, liệt kê hắn chửi trời…hắn chửi đời…chửi ngay …chửi đứa … và chêm xen.0,5 điểm. Hiệu quả ngệ thuật của biện pháp tu từ đó Phép điệp cú pháp và liệt kê nhằm nhấn mạnh đối tượng của tiếng chửi được sắp xếp từ xa đến gần, từ cao đến thấp, có thứ tự, có lớp lang. Nghệ thuật chêm xen ở cuối câu chửi đẻ ra cái thằng Chí Phèo nhằm nhấn mạnh bi kịch bị từ chối của Chí Phèo. Đồng thời, tác giả gián tiếp tố cáo chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra Chí Phèo 0,5 điểm. Câu 3 Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn tạo nhịp điệu nhanh, dồn dập và tạo nên kịch tính cho truyện. “Tức mình”, rồi “tức thật! Thế này thì tức thật. Tức chết đi mất”, “mẹ kiếp”, “nghiến răng mà chửi”. Những câu văn ngắn đã cho ta cảm nhận được trực tiếp nỗi đau của Chí. Hiện lên trong đoạn văn là hình ảnh Chí Phèo đang vật vã, đang quằn quại trong nỗi đau khổ, trong bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình. Dùng tiếng chửi, dù là có cố gắng giao tiếp với loài người nhưng cuộc đời Chí vẫn là con số không, không bè bạn, không ai coi hắn như một con người; duy chỉ có trong hắn một cái mang hình hài rõ rệt đó là khối cô đơn ngày càng kết tụ sâu sắc, gay gắt, xót xa. 0,5 điểm. …………………………………………… Các dạng đề đọc hiểu Chí phèo của Nam Cao 1. Dạng đề đọc – hiểu 3-4 điểm Câu 1 Đọc văn bản “Chí Phèo” – Nam Cao và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… Trích “Chí Phèo” – Nam Cao a. Đoạn văn trên sử dụng phương thức biểu đạt nào là chính? * Gợi ý làm bài Đoạn văn trên sử dụng phương thức biểu đạt chính là Phương thức tự sự. b. Tác giả đã sử dụng những kiểu câu nào? * Gợi ý làm bài – Tác giả đã sử dụng những kiểu câu khác nhau Câu trần thuật câu kể, câu miêu tả, câu hỏi câu nghi vấn, câu cảm thán. Câu 2 Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới. – “Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.” Chí Phèo – Nam Cao a. Đoạn văn trên thuộc phong cách ngôn ngữ gì? Nêu nội dung của đoạn văn? * Gợi ý làm bài – Đoạn văn trên thuộc phong cách ngôn ngữ là phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. – Nội dung của đoạn văn nói đến sự thức tỉnh của Chí Phèo. b. Nêu cụ thể những câu trần thuật, câu cảm thán, câu nghi vấn trong đoạn văn trên. Việc kết hợp sử dụng nhiều kiểu câu như vậy có tác dụng gì? * Gợi ý làm bài – Những câu trần thuật trong đoạn văn trên là ● Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.. ● Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.” – Những câu nghi vấn Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? – Câu cảm thán Buồn thay cho đời! – Việc kết hợp sử dụng nhiều kiểu câu như vậy có tác dụng làm cho lời kể trở nên nhiều giọng, thể hiện được nhiều cung bậc cảm xúc. Qua đó cho người đọc thấy được hiện trạng cuộc đời của Chí Phèo được soi từ nhiều góc nhìn khác nhau c. Hãy chỉ ra những hình ảnh ẩn dụ và hình ảnh so sánh được sử dụng trong đoạn văn trên? * Gợi ý làm bài – Hình ảnh ẩn dụ được sử dụng trong đoạn văn là ● …cái dốc bên kia của đời.. ● cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. – Hình ảnh so sánh Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. ● Ở đây hình ảnh có tính ẩn dụ được dùng trong một câu văn sử dụng phép so sánh. Câu 3 Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… “ a, Văn bản trên được trích từ tác phẩm nào? Xác định vị trí của văn bản trong tác phẩm và nội dung cơ bản của đoạn trích? * Gợi ý làm bài – Văn bản được trích từ tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. – Vị trí văn bản ở vị trí mở đầu truyện ngắn Chí Phèo. – Nội dung cơ bản của đoạn trích là miêu tả cảnh Chí Phèo uống rượu say và vừa đi vừa chửi giữa sự thờ ơ của tất cả mọi người. b. Xác định giọng điệu của lời văn trong văn bản. * Gợi ý làm bài – Lời văn thuật lại tiếng chửi của Chí Phèo bằng một giọng văn kể chuyện lạnh lùng tác giả gọi nhân vật là hắn, kể chuyện một cách khách quan, chân thực, không hề giấu giếm, che đậy hình ảnh xấu xí của nhân vật. Tuy nhiên, đằng sau lời văn lạnh lùng tưởng như vô cảm ấy, tác giả thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương dành cho nhân vật. Câu 4. Theo anh/chị, ai đã đẻ ra Chí Phèo? * Gợi ý làm bài Trong văn bản, Nam Cao không nói rõ nguồn gốc của Chí Phèo Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… nhưng rõ ràng Chí Phèo là một hiện tượng có thật, một sản phẩm tất yếu của xã hội thực dân nửa phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đẻ ra hiện tượng Chí Phèo chính là chế độ xã hội bất công thối nát đương thời. 2. Dạng đề viết bài văn 4-6 điểm Đề 1 Phân tích truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao * Gợi ý trả lời I. Mở bài – Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này – Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn, nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng II. Thân bài 1. Làng Vũ Đại – không gian nghệ thuật của truyện ngắn – Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí Phèo đều diễn ra tại đây – Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt. – Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa. ⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm 2. Nhân vật Bá Kiến – Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn – Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác ⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng 3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo a. Sự xuất hiện của nhân vật – Hắn vừa đi vừa chửi… sự xuất hiện tự nhiên – Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù – Hoàn cảnh xuất thân không cha, không mẹ, không nhà, không cửa – Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp + Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng c. Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù – Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù + Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn. + Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị. – Hậu quả của những ngày ở tù + Hình dạng biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình. + Nhân tính triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính. – Quá trình tha hóa của Chí Phèo Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến ⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở – Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo. + Về nhận thức Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống. + Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc + Về ý thức Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người. – Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc. ⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh e. Bi kịch bị cự tuyệt – Nguyên nhân do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội . – Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo + Lúc đầu Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở + Sau Chí hiểu ra mọi việc xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát. ⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người. 4. Đặc sắc nghệ thuật – Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. – Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. – Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo. – Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic. – Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính. III. Kết bài – Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo – Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng học đã biến thành quỷ dữ. Đề 2 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” Nam Cao. * Gợi ý trả lời I. Mở bài – “Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. – Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao. II. Thân bài. A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA. 1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình. Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một lò gạch cũ. Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gườm trông gớm chết. Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt và đâm chém người cho nên cúi mặt hắn vàng mà lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật nó không còn phải là mặt người nó là mặt của một con vật lạ. 2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính. Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xòe, châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu gọi om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa mới chạy, rồi khóc lóc mêu mêu, mụ đưa ra chai rượu. Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn say, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận …. Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!. B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC TỈNH. 1. Người nông dân bị tha hóa. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị huỷ hoại hoàn toàn của Chí Phèo, bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng sáng khi gặp được cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có. Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm. 2. Cuối cùng đã thức tỉnh Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?. Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí Trời ơi. Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện . C. ĐIỀU BI THẢM LÀ ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI MÀ KHÔNG ĐƯỢC 1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng Sống lương thiện thì không được chấp nhận, làm lưu manh như cũ thì không thể và cũng không muốn. Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó “Tao muốn làm người lương thiện …. Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này! Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”. 2. Bi kịch biến thành thảm kịch Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát. Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công vừa có nét khái quát, vừa có cá tính. Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa bị tước đoạt cả nhân tính. Nhân vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến tâm lí. III. Kết bài. Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện. Chí Phèo là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa. Đề 3 Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở. * Gợi ý trả lời I. Mở bài – Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo Một tác giả lúc nào cũng trăn trở về cách sống và cách viết, luôn nhìn đời bằng con mắt của tình thương. Chí Phèo là một tác phẩm Nam Cao đã dùng tình thương để nhìn và để viết nên như vậy – Với cái nhìn đầy tình thương, Nam Cao đã để cho sự lương thiện một lần nữa quay trở về với Chí sau khi gặp được Thị Nở II. Thân bài 1. Khái quát về hoàn cảnh Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở – Chí Phèo đã từng là một người nông dân lương thiện – Sau khi bị Bá Kiến hãm hại, Chí Phèo bị bắt vào tù – Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính – Làm tay sai cho Bá Kiến ⇒ Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bị coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” 2. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở – Hoàn cảnh gặp gỡ + Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu + Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về + Hắn gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà Thị Nở + Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng ⇒ Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo 3. Diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở a. Thức tỉnh – Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh” + Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” + Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài + Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn” + Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất + Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói… + Hắn đủ tỉnh để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc ⇒ Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên b. Niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về – Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng – Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc – Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn – Hắn muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con – Chí Phèo thèm lương thiện Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về – Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui” ⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy c. Thất vọng, đau đớn – Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, bởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn + “Ngẩn người”, “ngẩng mặt” Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình ⇒ đáng thương + Thoáng thấy hương cháo hành hồi tưởng về tình yêu đã trải qua + Hành động Nắm lấy tay Thị ⇒ mong muốn níu kéo hạnh phúc + Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức” ⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng d. Phẫn uất – Mong muốn quay trở lại làm người lương thiện không thể thực hiện được, niềm phẫn uất trong Chí đẩy lên cao – Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. – Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình ⇒ Hành động tự kết liễu thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng III. Kết bài – Khái quát lại diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở – Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân Đề 4 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo”/ Nam Cao. * Gợi ý trả lời I. Mở bài – Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo – Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị trí quan trọng, ít nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở II. Thân bài 1. Ngoại hình – Miêu tả khách quan, trần trụi một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” + Ngẩn ngơ hành động bản năng + Xấu ma chê quỷ hờn từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người + Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi ⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi 2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người – Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở + Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo + Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho” + Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại + Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính ⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí 3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình – Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng – Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí – Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích” – Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối 4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm bi kịch cuộc đời Chí Phèo – Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo + Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác +Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí + Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát ⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính Chí Phèo III. Kết bài – Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở – Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch Đề 5 Phân tích chi tiết “bát cháo hành” trong truyện ngắn “Chí Phèo” – Nam Cao * Gợi ý trả lời I. Mở bài – Vài nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo Nam Cao là tác giả của nhiều truyện ngắn hiện thực xuất sắc. Trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông, không thể bỏ qua Chí Phèo, một truyện ngắn chứa đựng chiều sâu tư tưởng của nhà văn Nam Cao – Trong mỗi tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có những chi tiết lại mang ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. “Bát cháo hành” trong Chí Phèo là một trong những chi tiết nghệ thuật như thế! II. Thân bài 1. Sự xuất hiện – Chi tiết xuất hiện trong phần giữa truyện – Sau cuộc gặp gỡ về thể xác giữa Chí Phèo và thị Nở ở vườn chuối, sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm. Chính Thị Nở là người đã chủ động về nhà nấu cháo sang mang sang cho Chí Phèo 2. Bát cháo hành trong sự cảm nhận của Chí Phèo – Nồi cháo còn nóng nguyên….vừa sang thị đã đi tìm gạo, hành thì may nhà lại còn – Bát cháo hành khiến Chí Phèo rất “ngạc nhiên” và thấy “mắt như ươn ướt”, bởi vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho – Bát cháo hành khiến Chí Phèo “bâng khuâng” – Cảm nhận “Cháo mới thơm làm sao!”- bát cháo là sự quan tâm của Thị Nở dành cho hắn – Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm – Hắn nhận ra cháo hành rất ngon ⇒ Bát cháo hành giản dị trong cảm nhận của Chí Phèo là thứ rất ngon, đó là chi tiết khiến hắn lần đầu tiên và cũng là duy nhất cảm thấy được quan tâm, nó đánh thức nhân tính bấy lâu nay bị vùi lấp trong Chí Phèo 3. Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành – Về nội dung + Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo + Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng + Khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện – Về nghệ thuật + Khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật Chí Phèo + Đây là chi tiết thúc đẩy cốt truyện phát triển + Là chi tiết tác giả gửi gắm niềm tin vào sức mạnh cảm hóa con người bằng tình người III. Kết bài – Khẳng định lại vai trò của chi tiết bát cháo hành trong việc đánh thức sự lương thiện trong tâm hồn Chí nói riêng và trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng truyện nói chung – Liên hệ cảm nhận của bản thân về chi tiết đặc sắc này. Đề 6 Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chí Phèo. * Gợi ý trả lời I/Mở bài -Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo. – Dẫn dắt vào vấn đề giá trị hiện thực và nhân đạo. II/Thân bài – Trong tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo – Chí Phèo được Nam Cao phân tích trên loại mâu thuẫn Đó là mâu thuẫn giai cấp đổi kháng, một bên là cường hào thống trị, một bên là nhân dân lao động. a. Giá trị hiện thực 1. Chí Phèo- con người bị tha hóa – Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một con người bị xã hội tha hóa + “Hắn về lớp này trông khác hẳn..” + “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế” =>Nhân hình bị phá hủy -Sau khi bị tha hóa, Chí Phèo lúc nào cũng say, chưa bao giờ là hết say + “Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời.” +“Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác” => Con người luôn tìm đến cái say lúc không còn là chính mình -Chí Phèo là một con người nhưng không được sống dưới thân phận là một con người, xã hội ruồng bỏ, mọi người xa lánh + “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…” =>Nhân tính bị mất đi, không còn là chính mình -Bản chất là một con người lương thiện, bởi hắn “thèm lương thiện”, Chí Phèo cũng có ước muốn như bao người khác + “Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”; “Hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì” + “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm” -Chí Phèo bản chất là một con người lương thiện, bị tha hóa, làm mất đi nhân tính của chính mình -> lên án bộ mặt giả dối của xã hội, bóc trần bản chất giai cấp địa chủ => Hiện thực tố cao sâu sắc + Từ đó thấy được số phận khốn khổ, bi thảm của người nông dân nghèo trong xã hội cũ qua hình tượng Chí Phèo. 2. Nhân vật Bá Kiến- nguyên nhân dẫn đến quá trình tha hóa của Chí Phèo – Chí Phèo bị phá hủy nhân tính lẫn nhân hình, nhưng Nam Cao đã không miêu tả dông dài về quá trình tha hóa ấy, mà kể về cội nguồn, nguồn gốc của nó – Bá Kiến, con người đại diện cho bọn cường hào thống trị, là nhân vật tiêu biểu cho bộ mặt giai cấp thống trị + Ngoại hình độc đáo “Giọng quát rất sang” + Lời nói ngọt nhạt cụ thay đổi giọng liên tục tùy theo đối phương “Rồi, đổi giọng cụ thân mật hỏi”; “Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng” – Bản chất của Bá Kiến khôn ngoan, gian hùng, xảo quyệt + Đối với dân “Mềm thì nắn, rắn thì buông” + Đối với kẻ thù “Dùng thằng đầu bò để trị thằng đầu bò” + Đối với Chí Phèo vì ghen tuông, Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù -> là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha hóa của Chí Phèo + Bá Kiến vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái bi kịch đau đớn nhất của người lao động nghèo trong xã hội cũ của Chí Phèo. => Tóm lại Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn người nông dân lao động. Lên ánh hành vi vô nhân đạo. Phản ánh những tội ác trong xã hội. b. Giá trị nhân đạo – Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến tận cùng cái nhìn thương cảm, trân trọng của Nam cao đối với người nông dân lao động nghèo – Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết – Sự xuất hiện của Thị Nở đã làm sống dậy bản chất lương thiện vốn có của Chí Phèo mà đằng sau đó chính là những tình yêu thương ấm áp mà Chí Phèo chưa từng có – Chính cái con người dở hơi, xấu đến mức “ma chê quỷ hờn” như vậy đã soi sáng mọi ngóc ngách tối tăm trong con người Chí Phèo, giúp Chí nhận ra cuộc sống xung quanh, đặc biệt đó là cảm nhận được tính người từ trong bản thân mình + “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” + “Có tiếng cười nói của những người đi chợ” + “Anh thuyền gõ mái chèo đuổi cá.” + “Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!” – Từ một con quỷ dữ, nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có -Bi kịch và đau đớn chính là ngay khi Chí đã tìm thấy con đường trở về làm người lương thiện thì lại bị từ chối, ruồng bỏ một lần nữa. Chút hi vọng cuối cùng cũng bay mất -Xã hội đã cướp đi quyền làm người của Chí và vĩnh viễn không trả lại -Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết” -Nam Cao đã miêu tả số phận bất hạnh và sự cảm thông chia sẻ sâu sắc với người nông dân; khẳng định phẩm chất tốt đẹp ở họ; lên án hành vi vô nhân đạo => Tóm lại Phát hiện, miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ bị xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác biến thành thú dữ. Khẳng định bản chất lương thiện của họ ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình nhân tính. c. Nghệ thuật -Nghệ thuật xây dựng cốt truyện; cách miêu tả tâm lí nhân vật, lối kể chuyện đặc sắc của tác giả -Cách vào truyện độc đáo, tập trung chú ý người đọc vào nhân vật, nhằm để gây ấn tượng mạnh -Xây dựng thành công những nhân vật điển hình bất hữu. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc. III/Kết bài – Nhận xét về giá trị hiện thực nhân đạo được sử dụng trong tác phẩm – Mở rộng vấn đề Đề 7 So sánh hình ảnh bát cháo hành trong truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao và bát cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân. * Gợi ý trả lời I. Mở bài – Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành – Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám Ví dụ Nam Cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn. II. Thân bài lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau 1. Hình ảnh bát cháo hành * Sự xuất hiện Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. * Ý nghĩa – Về nội dung + Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo + Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng + Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. – Về nghệ thuật + Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật. + Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người. 2. Hình ảnh nồi cháo cám * Sự xuất hiện Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ. * Ý nghĩa – Về nội dung + Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. + Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ ● Bà cụ Tứ gọi cháo cám là ” chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn. ● Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. – Về nghệ thuật Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn. 3. So sánh – Giống nhau + Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp. + Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt. + Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn. – Khác nhau + Bát cháo hành biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao. + Nồi cháo cám biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. 4. Lí giải sự giống và khác nhau đó – Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945 Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. ……………………………….. Đăng bởi THPT Sóc Trăng Chuyên mục Giáo dục
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng nhủ “ Chắc nó trừ mình ra! ” Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ thân hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha ! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết, hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết …”Trích “Chí Phèo” – Nam CaoAnh chị hãy cảm nhận ý nghĩa đoạn văn đang xem Hắn vừa đi vừa chửi. bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửiHướng dẫn làm bài– Tiếng chửi của Chí Phèo được đưa ngay lên đầu tác phẩm, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả về nhân vật Chí Phèo với tiếng chửi đầy bất mãn và đau đớn.– Những hình thái diễn đạt khác nhau của tiếng chửi+ Thông qua lời dẫn truyện lạnh lùng, xót xa của tác giả.+ Thông qua lời thuật lại đầy ngán ngẩm, thờ ơ, hờ hững của dân làng Vũ Đại+ Thông qua cái giọng bực tức, chất vấn, đớn đau, quằn quại khi vật lộn với bi kịch của chính bản thân Chí Phèo.– Tiếng chửi có sự tăng tiến về mặt cấp độ càng về sau tiếng chửi của hắn càng trở nên gay gắt, cay cú và phẫn nộ, đau đớn đến cực điểm.– Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch số phận Mồ côi từ thuở lọt lòng, không cha không mẹ.+ Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch tha hóa Sự lương thiện tốt đẹp ấy của Chí đã bị chà đạp, tàn phá bởi sự lẳng lơ đĩ thõa của một người đàn bà, và lòng ghen tuông mù quáng của tên chồng bất lực, sợ vợ là Bá Kiến. Chí Phèo bị đổ oan, vào tù độ 7, 8 năm. Từ đó Chí Phèo bị trượt dài trên con đường tội lỗi, tha hóa nhân hình, nhân phẩm, trở thành quỷ dữ của Chí Phèo.+ Tiếng chửi xuất phát từ bi kịch bị từ chối quyền làm người Gặp Thị Nở, khao khát một mái ấm, và trở lại làm người lương thiện nhưng bị những lời lẽ đay nghiến của bà cô làm tỉnh ngộ, lựa chọn tử tử kết thúc cuộc đời.– Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.– Cách sắp xếp tiếng chửi của Chí Phèo “Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời… chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo…“– Sử dụng biện pháp tu từ cú pháp+ Điệp cú pháp, liệt kê hắn chửi trời… hắn chửi đời… chửi ngay… chửi đứa… nhấn mạnh đối tượng của tiếng chửi được sắp xếp từ xa đến gần, từ cao đến thấp, có thứ tự, có lớp lang.+ Cuối câu chửi sử dụng nghệ thuật chêm xen “đẻ ra cái thằng Chí Phèo“ nhấn mạnh bi kịch bị từ chối của Chí Phèo đồng thời gián tiếp tố cáo chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra Chí Phèo.→ Tiếng chửi của Chí Phèo diễn ra theo trật tự từ cái vĩ mô đến cái cụ thể, từ lớn đến nhỏ.– Những tiếng chửi của Chí Phèo vu vơ, uất ức, hắn chửi từ trời đến đời, từ làng Vũ Đại đến những người không chửi nhau với hắn… hắn chửi tất cả mà chẳng trúng vào ai. Bởi Chí Phèo không biết ai làm hắn khổ, còn cả thế gian ai cũng nghĩ mình vô can trong bi kịch của Chí.– Điều độc đáo trong tiếng chửi của Chí Phèo là ở việc Nam Cao đã lồng tiếng chửi vào một nhân vật đã bị tha hóa cả đạo đức và nhân cách, hắn chính là sản phẩm của sự tàn bạo. Thế nên, tiếng chửi ấy rất xứng đáng, rất hợp lý.– Đặc sắc nghệ thuật trần thuật qua tiếng chửi+ Kết cấu đi thẳng vào vấn đề chính trong tiếng chửi hội tụ các vấn đề quan trọng mà tác giả muốn triển khai.+ Cách dẫn dắt cuốn hút, hấp dẫn người đọc.+ Cách kể chuyện đa chủ thể bằng lời nửa trực tiếp, tiếng chửi vừa có điểm nhìn của Nam Cao, vừa có điểm nhìn của Chí Phèo, vừa có điểm nhìn của làng Vũ Đại.→ Nghệ thuật trần thuật đạt đến trình độ bậc thầy, làm nên sức sống cho tác khảoNam Cao đã mở đầu thiên truyện một cách độc đáo, ấn tượng đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo. Hắn vừa đi vừa chửi “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.”Đoạn văn ngay từ đầu tác phẩm đã lột tả một cách sâu sắc số phận bất hạnh của Chí Phèo bi kịch một con người sinh ra làm người nhưng bị tước mất quyền làm người. Đằng sau bi kịch ấy là một tâm trạng đau đớn quần quại, uất ức và bế tắc của nhân chửi vậy, nhưng không có ai chửi nhau lạị với hắn bởi ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra!. Chí Phèo chửi phải chăng là hắn say rượu? Nhưng không! hắn càng uống càng tỉnh. Bởi thế tiếng chửi của Chí Phèo chính là sự giao tiếp của hắn với đời, hắn muốn được nói chuyện, muốn nói chuyện giao tiếp với mọi thường, người ta chỉ “chửi” khi đang tức giận một điều gì hay một người nào đó. Tiếng chửi gây mất hoà khí với mọi người xung quanh, nhưng đôi khi nó giúp chúng ta bớt căng thẳng vì “bõ tức”. Nhưng, Chí có xích mích điều gì hay với ai mà lại phải chửi? Lia cận cảnh vào những đối tượng mà Chí đang xích mích, đó là “trời”, “đời”, “làng Vũ Đại’, “ai không chửi nhau với hắn”, “người đẻ ra hắn”. Tiếng chửi của một kẻ tưởng chừng như say rượu ấy lại có lớp , bài bản, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ không xác định đến xác định. Tuy nhiên, cái đối tượng tưởng chừng như xác định “người đẻ ra hắn” thì “hắn không biết”, “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”. Thành ra, tiếng chửi ấy vu vơ, cất lên cao rồi lại lọt thỏm giữa không vậy, hắn chửi “trời” nhưng “trời có của riêng nhà nào”. Đối tượng mở đầu của tiếng chửi là “trời”. Bầu trời trong xanh, cao vời vợi yên bình, nhưng trong mắt hắn cũng thật đáng chửi. Vì bầu trời ôm trọn tất cả loài người vào lòng, không chừa một ai cả. Bầu trời ấy đã đón nhận hắn – một người nông dân lương thiện lại còn đón nhận thêm bá Kiến – người huỷ hoại cả cuộc đời hắn. Và phải chăng, bi kịch bị bà Ba gọi vào bóp chân khiến bá Kiến ghen tuông cũng là câu chuyện do “trời” sinh ra. Yếu tố tưởng chừng như duy tâm ấy lại phản ánh cả xã hội đương thời thối nát, không có chỗ cho người lương thiện dung thân. “Trời” như một câu cửa miệng, một thông lệ để kêu ca cho tất cả những số phận bi rồi hắn chửi “đời” “đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai”. Đời là cuộc sống, số phận của một con người từ lúc mới sinh đến khi ra đi. Chửi đời tức là chửi “tất cả”, chửi không sót một thứ gì. Cứ ngỡ tưởng, hắn chửi đời người khác nhưng thực ra, hắn cũng đang chửi đời hắn. Hắn chửi từng câu chuyện, từng bước đi trong cuộc đời mình. Dường như, mọi thứ đổ ập trước mắt hắn đều đáng để cay cú, nhạo báng, chế giễu. Cũng phải thôi khi người ta sinh ra trong “chăn ấm nệm êm” thì hắn lại sinh ra bên “cái lò gạch bỏ không”. Phải chăng, đó cũng là một dấu hiệu báo trước cho cuộc sống với hàng tấn bi kịch về sau. Đời đã bất công với hắn, đã đối xử tệ với hắn, nên hắn phải “chửi”. Giá mà cuộc đời hắn được suôn sẻ, giá mà đời ưu ái hắn hơn thì biết đâu, tiếng chửi ấy đã thay bằng tiếng “cảm ơn”.Cha mẹ cho hắn hình hài của người nhưng cả làng Vũ Đại đã tước đi quyền làm người, biến hắn trở thành con quỷ dữ khiến người ta trở nên ghê sợ. Còn nhớ, từ lúc hắn sinh ra đến năm 20 tuổi, hắn lớn lên trong vòng tay bao bọc của người làng. Tuy nhiên, họ lại “chuyền tay” nhau – một người chỉ nuôi hắn trong một thời gian nhất định. Làng Vũ Đại chỉ nuôi cho “sống”, chứ không ai dạy Chí cách “sống”. Chí hoàn toàn không được hưởng tình yêu thương hay sự chỉ bảo của bất kỳ một ai cả. Cuộc đời hắn là bức tranh với những mảnh ghép không hoàn hảo. Sự nuôi dưỡng mà làng Vũ Đại cho hắn là quá ít để hắn phải nhớ ơn suốt đời. Trái lại, cả làng ai cũng coi hắn là một sinh vật cần phải tránh xa, cần phải cự tuyệt. Ơn một, oán đến mười, đó là lý do vì sao hắn phải chửi. Chửi cả làng, tức là không chừa một người nào. Vậy mà ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Cả làng Vũ Đại đều đáng chửi vì không cho hắn được sống như một con người. Hắn đã chai sạn cảm xúc đến độ thứ bật ra không phải là tiếng khóc mà lại là tiếng thấy, chỉ cần một bát cháo hành, một người con gái xấu đến “ma chê quỷ hờn” mà hắn đã “thèm làm hoà với mọi người biết bao”. Có lẽ, con nhím ấy sẽ không còn xù lông nếu mọi người biết vuốt ve, xoa dịu những tổn thương trong trái tim rồi, hắn “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Cả làng Vũ Đại có ai dại gì mà động vào hắn? Bởi vậy, ai cũng đều đang không “chửi nhau với hắn”. Nực cười, lại có người chửi người không chửi nhau với mình sao? Như một đứa trẻ con làm nũng mẹ, chửi là một cách để Chí thu hút sự chú ý, sự quan tâm của người khác. Trong thâm tâm, Chí chỉ mong muốn có người đáp lại lời hắn dù bằng hình thức giao tiếp thấp nhất là tiếng không những không “thờ mẹ kính cha” mà lại “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn”. Ở một khía cạnh nào đó, người ta nhìn vào hắn như một đứa con bất hiếu. Xong, trở lại với bậc cha mẹ, họ chỉ biết đẻ hắn ra rồi để hắn tự sinh tự diệt. Vậy, công cha có còn như “núi Thái Sơn”, nghĩa mẹ có còn như “nước trong nguồn chảy ra”? Hắn không được hưởng chút nào từ tình yêu thương cha mẹ ngoài việc “đẻ hắn ra”. Mà đẻ hắn ra rồi, hắn nào có sung sướng, hạnh phúc gì? Thà từ đầu đừng có hắn còn hơn. Hắn không hề biết ơn việc mình có mặt trên đời này khiến cho hắn cũng chẳng thiết tha gì việc trả nghĩa cha mẹ. Tiếng chửi đó không phải của một người con bất hiếu mà là của một người con bất hạnh. Thành ra, tiếng chửi đó có phần đáng thương hơn là đáng chửi nhiều như vậy mà “không ai lên tiếng, không ai ra điều”. Tiếng chửi của Chí không đơn thuần là muốn nhiếc móc hay hờn trách ai mà chỉ muốn được giao tiếp với loài người. Người ta thường nói “yêu nhau lắm cắn nhau đau” hay “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Chửi những cái “đau”, những cái “roi vọt” không đơn thuần là ghét mà nó là một cách để tìm kiếm tình thương. Vậy mà không có một ai cho hắn cơ hội cả. Chỉ có một mình hắn cô độc đến đáng thương, tự chửi rồi tự mình đó là vì sao hắn cảm thấy “tức”, “tức chết đi được mất”, “có khổ hắn không”, “có phí rượu không”. Nếu không uống rượu, chắc hắn cũng không can đảm để làm như vậy. Thế mà uống rượu rồi, can đảm rồi, nhưng kết quả thu về lại hoàn toàn chẳng có gì. Chỉ có mình hắn với “ba con chó giữ”. Đẳng cấp của một con người đã bị hạ xuống tận hàng con vật. Đây chính là sự coi thường, sự nhục nhã lớn nhất mà mọi người dành cho Chí. Dù trong cơn say, hắn vẫn nhận ra điều này và nó làm cho hắn “tức chết đi được”. Bao nhiêu công sức mà hắn “tìm kiếm sự chú ý” đều đổ xuống sông xuống bể khiến hắn khổ tâm, đau đớn cụm từ cảm thán như “tức thật”, “tức chết đi được mất”, “mẹ kiếp”,… cũng những cụm từ mang ý nghĩa phủ định như “chắc nó trừ mình ra”, “không ai ra điều”, “không biết” đã diễn tả thành công giọng điệu phẫn uất, căm hờn của một cái tôi cô đơn, bị ruồng bỏ. Những cụm từ cảm thán ấy đã bộc lộ được cảm xúc của Chí một cách chân thực và rõ nét. Và khác với lối văn phong hoa mỹ, chau chuốt, Nam Cao sử dụng lối nói gần gũi, thân thiết với người đọc. Cũng phải thôi vì đối với một người như Chí, phải sử dụng cái tiếng chửi thô, sơ, nguyên bản mới thể hiện được hết con người. Cũng như ông Hai trong Làng của Kim Lân, Chí là một người nông dân với lối ngôn ngữ thuần Việt. Nhưng qua lối chửi của Chí, mùi lưu manh như hiện rõ trong từng câu từng mắt dường như đã gắn liền với truyện ngắn của Nam Cao. Ông tỏ ra sùng bái, tin tưởng vào giọt nước mắt – sự thiện lương của con người đến độ gần như không có một câu chuyện nào không có chi tiết giọt nước mắt. Giọt nước mắt chính là bi kịch cuộc đời của một nhân vật. Và phải chăng, tiếng chửi của Chí cũng là một hình thức khác của tiếng khóc. Hình thức này độc đáo hơn, tiêu cực hơn nhưng lại đậm phần chân thực, đau đớn chửi của Chí Phèo chính là phản ứng của hắn trước toàn bộ cuộc đời bất hạnh. Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn tột độ của một con người ý thức được rằng mình đã bị xã hội ruồng bỏ. Những tiếng chửi vô nghĩa, không được xã hội đón nhận, lắng nghe. Một khi đã bị tước mất quyền làm người thì mọi tiếng chửi rủa, than khóc, tỉnh táo hay say xỉn đều vô tác dụng. Chí Phèo thích kêu làng kêu xóm, đối với một người bình thường thì những tiếng kêu ấy ngay tập tức gây được sự chú ý của mọi người; nhưng đối với Chí lại khác, dù hắn kêu làng như một người bị đâm thì giỏi lắm chỉ làm cho Thị Nở kinh ngạc còn cả làng vẫn không ai động dạng… mà đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó xắn xôn xao trong xóm. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với con người của hắn dù là hình thức hạ đẳng nhất. Nhưng cũng không ai đáp lại nên Chí phẫn uất. Tiếng chửi vừa thể hiện đỉnh cao tấn bi kịch cô đơn, bị từ chối quyền làm người của Chí vừa dẫn dắt câu chuyện đến hoàn cảnh xuất thân và số phận bất hạnh của Chí chi tiết này cho thấy một kiếp sống cô độc của người nông dân bị tha hóa, bị xã hội ruồng bỏ, không còn tư cách làm người. Chí Phèo tồn tại như một “bóng ma” nhưng là một “bóng ma” lạc lõng và không gây kinh sợ cho ai văn thể hiện ngòi bút văn xuôi bậc thầy của Nam Cao ở tài năng dẫn chuyện, kể chuyện, sử dụng ngôn từ nghệ thuật điêu luyện, xuất sắc điểm nhìn trần thuật linh hoạt, làm nổi bật hoàn cảnh và số phận của nhân vật; ngôn ngữ sinh động, đa thanh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ trần thuật ngôi thứ ba với ngôn ngữ lời nửa trực tiếp, … Chú ý tiếng chửi và cách trần thuật nương theo tâm trạng của một người say rượu và nỗi đau khổ, tuyệt vọng của một con người sinh ra làm người nhưng không được thừa nhận là con người. Bên cạnh đó, đoạn văn mở đầu tác phẩm còn đặc biệt ở chỗ nó tạo ra một kết cấu truyện sáng tạo, làm nổi bật số phận nhân vật và giá trị của thiên thêm Bài Văn Mẫu Hãy Kể Một Kỉ Niệm Khó Quên Về Tình Bạn Hay Nhất Dàn ÝĐầu những thế kỷ XX, người ta đã coi chị Dậu là hình mẫu tiêu biểu cho những số phận khổ cực của người nông dân bị ép buộc, phải bán con, bán chó,… Xong, Chí Phèo xuất hiện như một cơn sóng mới xô đi hình ảnh đó, chiếm lấy ngôi vị “người nông dân với số phận bi thảm nhất” bị tha hoá cả về nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Có thể nói, Nam cao đã phản ánh thật xuất sắc xã hội đương thời thối nát, buộc con người muốn sống được thì phải tha hoá.
hắn vừa đi vừa chửi